Theo báo cáo kết quả thực hiện tháng 4/2014 của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản của Việt Nam tháng 4 ước đạt 2,63 tỷ USD, đưa giá trị xuất khẩu của ngành 4 tháng đầu năm 2014 lên 9,69 tỷ USD, tăng 13,8% so với cùng kỳ năm 2013. Trong đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính ước đạt 4,74 tỷ USD, tăng 5,8%; Giá trị xuất khẩu thuỷ sản ước đạt 2,22 tỷ USD, tăng 31,2%; Giá trị xuất khẩu các mặt hàng lâm sản chính ước đạt 2 tỷ USD, tăng 20,4% so với cùng kỳ năm 2013.

Kết quả cụ thể một số mặt hàng chủ yếu như sau:

  • Gạo: Khối lượng gạo xuất khẩu tháng 4 năm 2014 ước đạt 631 nghìn tấn với giá trị 278 triệu USD đưa khối lượng xuất khẩu gạo 4 tháng đầu năm 2014 ước đạt 2,04 triệu tấn và 931 triệu USD, giảm 6,9% về khối lượng, và giảm 4,7% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Giá gạo xuất khẩu bình quân tháng 3 năm 2014 đạt 460,3 USD/tấn, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm 2013. Đáng chú ý nhất là thị trường Philippin có sự tăng trưởng đột biến trong 3 tháng đầu năm với mức tăng gấp 6 lần về khối lượng và tăng 6,68 lần về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Với mức tăng trưởng này, Philippin vươn lên vị trí đứng thứ 2 về thị trường nhập khẩu gạo của Việt Nam, chiếm 26,87% thị phần (đứng thứ nhất là thị trường Trung Quốc với 38,37% thị phần), tiếp đến là Gana, Singapore, chiếm thị phần lần lượt là 4,8% và 3,79%.
  • Cà phê: Tháng 4 năm 2014 xuất khẩu cà phê ước đạt 223 nghìn tấn với giá trị đạt 471 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu cà phê 4 tháng đầu năm ước đạt 826 nghìn tấn và 1,65 tỷ USD, tăng 39,6% về khối lượng và tăng 30% về giá trị so cùng kỳ năm 2013. Giá cà phê xuất khẩu bình quân 3 tháng đầu năm đạt 1.961 USD/tấn, giảm 8,27% so với năm 2013. Đức và Hoa Kỳ tiếp tục là hai thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam trong 3 tháng đầu năm 2014 với thị phần lần lượt là 13,7% và 9,29%. Thị trường Pháp có tốc độ tăng mạnh nhất, gấp gần 46 lần so với 3 tháng đầu năm 2013.
  • Cao su: Ước tính khối lượng xuất khẩu cao su tháng 4 đạt 38 nghìn tấn với giá trị 74 triệu USD, với ước tính này 4 tháng đầu năm 2014 xuất khẩu cao su đạt 189 nghìn tấn với giá trị đạt 378 triệu USD, giảm 17,9% về khối lượng và giảm 38,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Giá cao su xuất khẩu bình quân 3 tháng đầu năm 2014 đạt 2.010 USD/tấn, giảm 25,1% so với cùng kỳ năm 2013. Mặc dù Trung Quốc và Malaysia vẫn duy trì là thị trường tiêu thụ cao su lớn nhất của Việt Nam trong 3 tháng, nhưng lại có xu hướng giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2013, cụ thể: Trung Quốc giảm 37,5% về khối lượng và giảm 53,96% về giá trị; Malaysia giảm 29,23% về khối lượng và giảm 49,6% về giá trị. Thị trường Hà Lan có tốc độ tăng nhanh nhất, gấp hơn 6 lần so với 3 tháng đầu năm 2013.
  • Chè: Khối lượng xuất khẩu chè tháng 4 năm 2014 ước đạt 8 nghìn tấn với giá trị đạt 13 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu chè 4 tháng đầu năm ước đạt 33 nghìn tấn với giá trị đạt 51 triệu USD, giảm 13,2% về khối lượng và giảm 10,7% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Giá chè xuất khẩu bình quân 3 tháng đầu năm 2014 đạt 1.541 USD/tấn, tăng 2,49% so với cùng kỳ năm 2013. Khối lượng chè xuất khẩu sang Pakistan – thị trường lớn nhất của Việt Nam giảm 13,06% về khối lượng và giảm 0,91% về giá trị.
  • Hạt điều : Khối lượng hạt điều xuất khẩu tháng 4 ước đạt 20 nghìn tấn với giá trị 132 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu 4 tháng đầu năm 2014 đạt 73 nghìn tấn với 456 triệu USD, tăng 14,5% về khối lượng và tăng 15,7% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Giá hạt điều xuất khẩu bình quân 3 tháng đầu năm 2014 đạt 6.182 USD/tấn, tăng 1,76% so với cùng kỳ năm 2013. Hoa Kỳ, Trung Quốc và Hà Lan vẫn duy trì là 3 thị trường nhập khẩu điều lớn nhất của Việt Nam chiếm lần lượt 28,44%, 20,01% và 9,12% tổng giá trị xuất khẩu.
  • Tiêu: Khối lượng tiêu xuất khẩu tháng 4 ước đạt 23 nghìn tấn, với giá trị đạt 157 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu tiêu 4 tháng đầu năm lên 72 nghìn tấn với giá trị 493 triệu USD, tăng 35,5% về khối lượng và tăng 40,4% về giá trị. Giá tiêu xuất khẩu bình quân 3 tháng đầu năm 2014 đạt 6.785 USD/tấn, tăng 2,36% so với cùng kỳ năm 2013. Xuất khẩu tiêu sang thị trường Hoa Kỳ, Singapore và Ân Độ – 3 thị trường lớn nhất của Việt Nam trong 3 tháng đầu năm 2014 chiếm 37,87% thị phần.
  • Gỗ và sản phẩm gỗ: Ước giá trị xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ tháng 4 đạt 479 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu 4 tháng đầu năm đạt 1,9 tỷ USD, tăng 21% so với cùng kỳ năm 2013. Hoa Kỳ và Trung Quốc – 2 thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam 3 tháng đầu năm 2014 – chiếm 51,91% tổng giá trị xuất khẩu – có mức tăng trưởng lần lượt là 23,32% và 38,59% so với cùng kỳ năm 2013.
  • Thuỷ sản: Giá trị xuất khẩu thủy sản tháng 4 ước đạt 606 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu 4 tháng đầu năm đạt 2,2 tỷ USD, tăng 31,2% so với cùng kỳ năm 2013. Hoa Kỳ vẫn duy trì được vị trí là thị trường nhập khẩu hàng đầu của thủy sản Việt Nam, chiếm 24,59% tổng giá trị xuất khẩu. Xuất khẩu thủy sản sang thị trường này ba tháng đầu năm đạt 397,49 triệu USD, tăng 85% so với cùng kỳ năm 2013. Ba tháng đầu năm, xuất khẩu thủy sản sang hầu hết các thị trường tiêu thụ lớn đều tăng mạnh như Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc với mức tăng tương ứng đạt 19%, 56,1% và 16,6%.
  • Sắn và các sản phẩm từ sắn : Khối lượng xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn trong tháng 4 ước đạt 305 nghìn tấn, với giá trị đạt 88 triệu USD đưa tổng khối lượng xuất khẩu mặt hàng này 4 tháng đầu năm đạt 1,4 triệu tấn với giá trị 429 triệu USD, giảm 16,9% về khối lượng và giảm 17,9% về giá trị so cùng kỳ năm 2013. Giá trị xuất khẩu sản và các sản phẩm sắn sang hầu hết các thị trường lớn đều giảm mạnh, ngoại trừ thị trường Malaysia tăng (tăng 20,23% về khối lượng và tăng 14,44% về giá trị) so với cùng kỳ năm 2013. Trung Quốc tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với 89% thị phần.

Nguồn: Trung tâm tin học và thống kê Bộ NN&PTNT

//Tin tự động cập nhật//


Bài viết khác