Theo Báo cáo của Bộ NN&PTNT, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản tháng 9 ước đạt 2,76 tỷ USD, đưa giá trị xuất khẩu của ngành 9 tháng đầu năm 2014 lên 22,66 tỷ USD, tăng 11,4% so với cùng kỳ năm 2013; Trong đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính ước đạt 10,95 tỷ USD, tăng 9,8%; Giá trị xuất khẩu thuỷ sản ước đạt 5,65 tỷ USD, tăng 21,6%; Giá trị xuất khẩu các mặt hàng lâm sản chính ước đạt 4,63 tỷ USD, tăng 13,2% so với cùng kỳ năm 2013.

Kết quả cụ thể một số mặt hàng chủ yếu như sau:

  • Gạo: Khối lượng gạo xuất khẩu tháng 9 năm 2014 ước đạt 524 nghìn tấn với giá trị 249 triệu USD đưa khối lượng xuất khẩu gạo 9 tháng đầu năm 2014 ước đạt 5,02 triệu tấn và 2,29 tỷ USD, giảm 5,2% về khối lượng, và giảm 1,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Giá gạo xuất khẩu bình quân 8 tháng đầu năm 2014 đạt 453,68 USD/tấn, tăng 3,3% so với cùng kỳ năm 2013. Thị trường lớn nhất trong 8 tháng đầu năm 2014 là Trung Quốc với 33,24%. Đáng chú ý nhất là thị trường Philippin có sự tăng trưởng đột biến trong 8 tháng đầu năm với mức tăng gấp 3,06 lần về khối lượng và gấp 3,1 lần về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Với mức tăng trưởng này, Philippin vươn lên vị trí đứng thứ 2 về thị trường nhập khẩu gạo của Việt Nam, chiếm 22,71%, tiếp đến là Malaysia, Gana và Singapore, chiếm thị phần lần lượt là 6,1%; 5,37% và 3,26%.
  • Cà phê: Tháng 9 năm 2014 xuất khẩu cà phê ước đạt 87 nghìn tấn với giá trị đạt 196 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu cà phê 9 tháng đầu năm ước đạt 1,35 triệu tấn và 2,81 tỷ USD, tăng 31,9% về khối lượng và tăng 27,9% về giá trị so cùng kỳ năm 2013. Giá cà phê xuất khẩu bình quân 8 tháng đầu năm đạt 2.068 USD/tấn, giảm 3,59% so với năm 2013. Đức và Hoa Kỳ tiếp tục là hai thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam trong 8 tháng đầu năm 2014 với thị phần lần lượt là 13,94% và 9,91%. Thị trường Bỉ có tốc độ tăng mạnh nhất, gấp 2,7 lần về khối lượng và gấp 2,5 lần về giá trị so với 8 tháng đầu năm 2013.
  • Cao su: Ước tính khối lượng xuất khẩu cao su tháng 9 đạt 133 nghìn tấn với giá trị 221 triệu USD, với ước tính này 9 tháng đầu năm 2014 xuất khẩu cao su đạt 705 nghìn tấn với giá trị đạt 1,25 tỷ USD, giảm 2,4% về khối lượng và giảm 21,9% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Giá cao su xuất khẩu bình quân 8 tháng đầu năm 2014 đạt 1.800 USD/tấn, giảm 24,05% so với cùng kỳ năm 2013. Mặc dù Trung Quốc và Malaysia vẫn duy trì là thị trường tiêu thụ cao su lớn nhất của Việt Nam trong 8 tháng đầu năm 2014, nhưng lại có xu hướng giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2013, cụ thể: Trung Quốc giảm 23,64% về khối lượng và giảm 34,41% về giá trị; Malaysia giảm 14,04% về khối lượng và giảm 39,55% về giá trị.
  • Chè: Khối lượng xuất khẩu chè tháng 9 năm 2014 ước đạt 11 nghìn tấn với giá trị đạt 19 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu chè 9 tháng đầu năm ước đạt 95 nghìn tấn với giá trị đạt 160 triệu USD, giảm 7,0% về khối lượng và giảm 2,0% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Giá chè xuất khẩu bình quân 8 tháng đầu năm 2014 đạt 1.677 USD/tấn, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm 2013. Pakistan và Đài Loan là hai thị trường lớn nhất của Việt Nam với thị phần lần lượt là 33,36% và 15,3%. Khối lượng chè xuất khẩu sang Pakistan – thị trường lớn nhất của Việt Nam tăng 65,18% về khối lượng và tăng 95,04% về giá trị. Thị trường Inđônêxia giảm mạnh nhất, giảm 56,84% về khối lượng và giảm 56,05% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013.
  • Hạt điều : Khối lượng hạt điều xuất khẩu tháng 9 ước đạt 27 nghìn tấn với giá trị 175 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu điều 9 tháng đầu năm 2014 đạt 225 nghìn tấn với 1,46 tỷ USD, tăng 19,6% về khối lượng và tăng 21,8% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Giá hạt điều xuất khẩu bình quân 8 tháng đầu năm 2014 đạt 6.468 USD/tấn, tăng 6% so với cùng kỳ năm 2013. Hoa Kỳ, Trung Quốc và Hà Lan vẫn duy trì là 3 thị trường nhập khẩu điều lớn nhất của Việt Nam chiếm lần lượt 32,86%, 14,78% và 57% tổng giá trị xuất khẩu.
  • Tiêu: Khối lượng tiêu xuất khẩu tháng 9 ước đạt 7 nghìn tấn, với giá trị đạt 68 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu tiêu 9 tháng đầu năm lên 140 nghìn tấn với giá trị 1,06 tỷ USD, tăng 24,5% về khối lượng và tăng 41,9% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Giá tiêu xuất khẩu bình quân 8 tháng đầu năm 2014 đạt 7.459 USD/tấn, tăng 12,3% so với cùng kỳ năm 2013. Xuất khẩu tiêu sang thị trường Hoa Kỳ, Singapore, Tiểu vương quốc Ả Rập Thống Nhất và Ấn Độ – 4 thị trường lớn nhất nhất của Việt Nam trong 8 tháng đầu năm 2014 – chiếm 35,05%. Thị trường Hoa Kỳ tăng 28,14% về khối lượng và tăng 40,87% về giá trị; Singapore tăng 83,19% về khối lượng và tăng gấp 2,3 lần về giá trị; Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất tăng 54,09 % về khối lượng và tăng 83,72% về giá trị; Thị trường Ấn Độ tăng 2,06 lần về khối lượng và 2,4 lần về giá trị so với cùng kỳ năm 2013.
  • Gỗ và sản phẩm gỗ: Ước giá trị xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ tháng 9 đạt 464 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu 9 tháng đầu năm đạt 4,41 tỷ USD, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm 2013. Xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ 8 tháng đầu năm sang hầu hết các thị trường chính đều tăng, ngoại trừ thị trường Trung Quốc giảm 1,69%; Hoa Kỳ và Nhật Bản có mức tăng trưởng lần lượt là 14,41% và 23,71% so với cùng kỳ năm 2013. Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản – 3 thị trường nhập khẩu gỗ lớn nhất của Việt Nam trong 8 tháng đầu năm 2014 – chiếm 62,33% tổng giá trị xuất khẩu của mặt hàng này.
  • Thuỷ sản: Giá trị xuất khẩu thủy sản tháng 9 ước đạt 619 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu 9 tháng đầu năm đạt 5,65 tỷ USD, tăng 21,6% so với cùng kỳ năm 2013. Hoa Kỳ vẫn duy trì được vị trí là thị trường nhập khẩu hàng đầu của thủy sản Việt Nam, chiếm 22,8% tổng giá trị xuất khẩu. Tiếp theo là Nhật Bản với 14,58% thị phần. Xuất khẩu thủy sản sang thị trường này 8 tháng đầu năm đạt 1,15 tỷ USD, tăng 31,39% so với cùng kỳ năm 2013. Trong 8 tháng đầu năm, xuất khẩu thủy sản sang hầu hết các thị trường khác đều tăng như Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc với mức tăng tương ứng đạt 6,72%, 47,16% và 26,75%….
  • Sắn và các sản phẩm từ sắn: Khối lượng xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn trong tháng 9 ước đạt 173 nghìn tấn, với giá trị đạt 68 triệu USD đưa tổng khối lượng xuất khẩu mặt hàng này 9 tháng đầu năm đạt 2,46 triệu tấn với giá trị đạt 806 triệu USD, giảm 0,3% về khối lượng và giảm 2% về giá trị so cùng kỳ năm 2013. Trong 8 tháng đầu năm 2014, giá trị xuất khẩu sắn và các sản phẩm sắn sang hầu hết các thị trường lớn đều giảm mạnh, ngoại trừ thị trường Nhật Bản tăng mạnh (tăng gấp 14 lần về khối lượng và tăng gấp gần 8 lần về giá trị); Malaysia tăng 11% về khối lượng nhưng giảm 0,39% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Trung Quốc tiếp tục là thị trường nhập khẩu sắn và các sản phẩm sắn lớn nhất của Việt Nam với 84,58% thị phần.

Nguồn: Trung tâm tin học và thống kê Bộ NN&PTNT

//Tin tự động cập nhật//


Bài viết khác