Như vậy là sau sự vào cuộc quyết liệt của Hiệp hội Cao su VN (VRA), VRG và các doanh nghiệp (DN) sản xuất, xuất khẩu (XK) cao su tự nhiên, cuối cùng, Bộ Tài chính đã “lắng nghe và thấu hiểu” bằng việc ban hành Thông tư số 111/2014/TT-BTC, miễn thuế XK cao su tự nhiên. Đây có thể xem như một biện pháp thiết thực nhằm “tiếp sức” cho các DN ngành cao su tự nhiên đang tỏ ra “đuối sức”.

Kiên trì kiến nghị

Để Bộ Tài chính đi đến quyết định này, VRA, các Hội viên và VRG đã phải “đổ mồ hôi” kiến nghị và chờ đợi tới hơn 2 tháng.

Theo Thông tư 145/2011/TT-BTC của Bộ Tài chính áp dụng từ ngày 8/12/2011, mủ cao su tự nhiên, cao su hỗn hợp chưa lưu hóa sẽ có thuế XK 3%. Quyết định này vấp phải sự phản đối của nhiều DN XK cao su vì đây là mặt hàng Nhà nước khuyến khích XK. Mặt khác, năm 2011 giá cao su XK tăng cao nên đánh thuế 3% thì các DN vẫn có lãi. Nhưng từ năm 2012 đến nay, giá cao su liên tục sụt giảm, hiện chỉ còn hơn 1.500 USD/ tấn, nếu cộng thêm 3% thuế XK thì DN lỗ nặng. Thêm vào đó, trong khi các DN nước ngoài trong khu chế xuất không phải chịu thuế XK. Từ đó dẫn đến các DN trong nước thua thiệt không sản xuất các mặt hàng mủ ly tâm, mủ hỗn hợp, không mở rộng được thị trường…

Trước những khó khăn đó, VRA và VRG kiến nghị Chính phủ, Bộ Tài chính miễn thuế XK 2 mặt hàng cao su nói trên. Sau đó, Bộ Tài chính có công văn trả lời về kiến nghị của VRA và VRG, dự kiến giảm thuế XK đối với những mặt hàng cao su có thuế XK từ mức 3% và 5% xuống còn 1%, nhưng đối với các mặt hàng cao su hiện có thuế XK 0%, Bộ dự kiến tăng lên thành 1%. Đây là một nghịch lý, bởi thay vì được giảm thuế XK thì với thuế suất mới, các DN ngành cao su phải chịu thuế hơn hai lần so với quy định hiện hành.

Miễn thuế xuất khẩu cao su tự nhiên: Mừng, nhưng chưa hết lo
Giải pháp mang tính chiến lược và căn cơ là các DN phải chú trọng xây dựng chủng loại sản phẩm phù hợp thị trường, tìm kiếm thêm khách hàng mới.

Trước bức xúc của các DN, VRA và VRG tiếp tục kiến nghị Chính phủ, Bộ Tài chính áp dụng chính sách thuế giá trị gia tăng đối với mặt hàng mủ cao su sơ chế như những nông sản khác, nghĩa là không phải kê khai, tính nộp thuế trong khâu kinh doanh, thương mại và thuế giá trị gia tăng đầu vào của các DN cung cấp mủ cao su sơ chế được khấu trừ toàn bộ. Đồng thời, đề xuất đưa thuế XK trở về mức 0%.

Vào đầu năm nay, Bộ Tài chính có văn bản trả lời không đồng tình với kiến nghị của VRA và VRG. Chỉ đến nay, khi giá cao su vẫn trên đà lao dốc, khiến DN thua lỗ, đối mặt với nguy cơ phá sản thì Bộ Tài chính mới đồng tình với kiến nghị của VRA và VRG.

Chỉ là “chiếc phao” tạm thời

Có thể nói, quyết định sửa đổi mức thuế suất thuế XK mặt hàng cao su của Bộ Tài chính như một “chiếc phao” giúp DN ngành cao su tự nhiên đang chới với giữa dòng nước lũ “có cơ hội sống sót”. Thực tế, từ đầu năm đến nay, các DN sản xuất, XK cao su đang lao đao vì thị trường tiêu thụ bị thu hẹp, giá giảm sâu, lượng hàng tồn kho tăng, đối mặt với nguy cơ thua lỗ. Thời gian tới, các DN cao su có thể tiếp tục phải đối mặt với khó khăn, bởi nhu cầu từ các thị trường lớn chưa có tín hiệu khởi sắc trong khi nguồn cung tăng mạnh.

Việc điều chỉnh thuế suất của Bộ Tài chính là động thái kịp thời nhằm tháo gỡ khó khăn cho DN ngành cao su. Tuy nhiên, đây chỉ là “chiếc phao” giúp DN tạm thời thoát khỏi” chết chìm”. Bởi dù thuế XK đưa về 0% mà DN không bán được hàng thì cũng không thể tồn tại. Giải pháp mang tính chiến lược và căn cơ là các DN phải chú trọng xây dựng chủng loại sản phẩm phù hợp nhu cầu thị trường, liên tục nâng cao chất lượng sản phẩm, xây dựng uy tín thương hiệu, đa dạng hóa thị trường và tìm kiếm thêm khách hàng. Chỉ khi nào thực hiện được yếu tố sống còn đó, dù thuế XK cao su thay đổi thế nào, DN cũng sẽ vẫn “sống được”.

Thông tư số 111/2014/TT-BTC quy định các mặt hàng được giảm thuế thuộc các nhóm: Cao su tự nhiên, nhựa cây balata, nhựa két, nhựa cây cúc cao su, nhựa cây họ sacolasea và các loại nhựa tự nhiên tương tự, ở dạng nguyên sinh hoặc dạng tấm, lá hoặc dải (mã 40.01); Cao su tổng hợp và các chất thay thế cao su dẫn xuất từ dầu, ở dạng nguyên sinh hoặc dạng tấm, lá hoặc dải; hỗn hợp của một sản phẩm bất kỳ của nhóm 40.01 với một sản phẩm bất kỳ của nhóm này, ở dạng nguyên sinh hoặc dạng tấm, lá hoặc dải (mã 40.02); Cao su hỗn hợp, chưa lưu hóa, ở dạng nguyên sinh hoặc dạng tấm, lá hoặc dải (mã 40.05).

Thuế suất hiện tại của các mặt hàng này là 1% và mức thuế suất mới sẽ áp dụng từ 2/10/2014.

Phú Vinh

Nguồn: Tạp chí CSVN

//Tin tự động cập nhật//


Bài viết khác