Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, ước kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản tháng 11/2014đạt 2,66 tỷ USD, đưa giá trị xuất khẩu của ngành 11 tháng đầu năm 2014 lên 28,20 tỷ USD, tăng 12,1% so với cùng kỳ năm 2013. Trong đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính ước đạt 13,19 tỷ USD, tăng 10,5%; Giá trị xuất khẩu thuỷ sản ước đạt 7,22 tỷ USD, tăng 19,3%; Giá trị xuất khẩu các mặt hàng lâm sản chính ước đạt 5,88 tỷ USD, tăng 12,9% so với cùng kỳ năm 2013.

Kết quả cụ thể một số mặt hàng chủ yếu như sau:

  • Gạo: Khối lượng gạo xuất khẩu tháng 11 ước đạt 443 nghìn tấn với giá trị 217 triệu USD đưa khối lượng xuất khẩu gạo 11 tháng đầu năm 2014 ước đạt 6,03 triệu tấn và 2,79 tỷ USD, giảm 2,7% về khối lượng, nhưng lại tăng 1,9% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Giá gạo xuất khẩu bình quân 10 tháng đầu năm 2014 đạt 460,09 USD/tấn, tăng 4,61% so với cùng kỳ năm 2013. Thị trường lớn nhất trong 10 tháng đầu năm 2014 là Trung Quốc với 31,1% thi phần. Đáng chú ý nhất là thị trường Philippin có sự tăng trưởng đột biến trong 10 tháng đầu năm với mức tăng gấp 3,47 lần về khối lượng và gấp 3,51 lần về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Với mức tăng trưởng này, Philippin vươn lên vị trí đứng thứ 2 về thị trường nhập khẩu gạo của Việt Nam, chiếm 21,92%, tiếp đến là Malaysia, Gana và Indonesia, chiếm thị phần lần lượt là 7,55%; 5,85% và 3,49%.
  • Cà phê: Tháng 11 xuất khẩu cà phê ước đạt 72 nghìn tấn với giá trị đạt 165 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu cà phê 11 tháng đầu năm ước đạt 1,56 triệu tấn và 3,26 tỷ USD, tăng 33,4% về khối lượng và tăng 32,2% về giá trị so cùng kỳ năm 2013. Giá cà phê xuất khẩu bình quân 10 tháng đầu năm đạt 2.086 USD/tấn, giảm 2,46% so với năm 2013. Đức và Hoa Kỳ tiếp tục là hai thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2014 với thị phần lần lượt là 13,45% và 10,04%. Thị trường Bỉ có tốc độ tăng mạnh nhất, gấp 2,6 lần về khối lượng và gấp 2,4 lần về giá trị so với 10 tháng đầu năm 2013.
  • Cao su: Ước tính khối lượng xuất khẩu cao su tháng 11 đạt 113 nghìn tấn với giá trị 166 triệu USD, với ước tính này 11 tháng đầu năm 2014 xuất khẩu cao su đạt 954 nghìn tấn với giá trị đạt 1,62 tỷ USD, tăng 0,5% về khối lượng nhưng lại giảm 27% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Giá cao su xuất khẩu bình quân 10 tháng đầu năm 2014 đạt 1.724 USD/tấn, giảm 26,65% so với cùng kỳ năm 2013. Mặc dù Trung Quốc và Malaysia vẫn duy trì là thị trường tiêu thụ cao su lớn nhất của Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2014, nhưng lại có xu hướng giảm so với cùng kỳ năm 2013, cụ thể: Trung Quốc giảm 2,48% về khối lượng và giảm 27,78% về giá trị; Malaysia giảm 6,26% về khối lượng và giảm 36,15% về giá trị.
  • Chè: Khối lượng xuất khẩu chè tháng 11 ước đạt 11 nghìn tấn với giá trị đạt 20 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu chè 11 tháng đầu năm ước đạt 121 nghìn tấn với giá trị đạt 206 triệu USD, giảm 5,2% về khối lượng nhưng lại tăng 0,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Giá chè xuất khẩu bình quân 10 tháng đầu năm 2014 đạt 1.698 USD/tấn, tăng 5,33% so với cùng kỳ năm 2013. Khối lượng chè xuất khẩu sang
  • Pakistan – thị trường lớn nhất của Việt Nam tăng 60,4% về khối lượng và tăng 85,71% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Trái ngược, thị trường Inđônêxia có tốc độ giảm mạnh nhất, giảm 55,77% về khối lượng và giảm 57,38% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013.
  • Hạt điều: Khối lượng hạt điều xuất khẩu tháng 11 ước đạt 24 nghìn tấn với giá trị 161 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu điều 11 tháng đầu năm 2014 đạt 281 nghìn tấn với 1,84 tỷ USD, tăng 18,2% về khối lượng và tăng 22,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Giá hạt điều xuất khẩu bình quân 10 tháng đầu năm 2014 đạt 6.536 USD/tấn, tăng 3,23% so với cùng kỳ năm 2013. Hoa Kỳ, Trung Quốc và Hà Lan vẫn duy trì là 3 thị trường nhập khẩu điều lớn nhất của Việt Nam chiếm lần lượt 32,79%, 15,02% và 11,17% tổng giá trị xuất khẩu.
  • Tiêu: Khối lượng tiêu xuất khẩu tháng 11 ước đạt 6 nghìn tấn, với giá trị đạt 54 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu tiêu 11 tháng đầu năm lên 151 nghìn tấn với giá trị 1,162 tỷ USD, tăng 18,1% về khối lượng và tăng 35,7% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Giá tiêu xuất khẩu bình quân 10 tháng đầu năm 2014 đạt 7.625 USD/tấn, tăng 14,26% so với cùng kỳ năm 2013. Xuất khẩu tiêu sang thị trường Hoa Kỳ, Singapore, Tiểu vương quốc Ả Rập Thống Nhất, Ấn Độ và Hà Lan – 5 thị trường lớn nhất nhất của Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2014 – chiếm 50% tổng xuất khẩu của mặt hàng này. Thị trường Hoa Kỳ tăng 20,34% về khối lượng và tăng 34,45% về giá trị; Singapore tăng 47,64% về khối lượng và 85,87% về giá trị, Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất tăng 41,53% về khối lượng và tăng 68,54% về giá trị. Thị trường Ấn Độ tăng 89,12% về khối lượng và 2,19 lần về giá trị so với cùng kỳ năm 2013.
  • Gỗ và sản phẩm gỗ: Ước giá trị xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ tháng 11 đạt 556 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu 11 tháng đầu năm đạt 5,58 tỷ USD, tăng 12,7% so với cùng kỳ năm 2013. Xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ 10 tháng đầu năm sang hầu hết các thị trường chính đều tăng, ngoại trừ thị trường Trung Quốc giảm 9,37%; Hoa Kỳ và Nhật Bản có mức tăng trưởng lần lượt là 14,17% và 19,47% so với cùng kỳ năm 2013. Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản – 3 thị trường nhập khẩu gỗ lớn nhất của Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2014 – chiếm 66,45% tổng giá trị xuất khẩu của mặt hàng này.
  • Thuỷ sản: Giá trị xuất khẩu thủy sản tháng 11 ước đạt 666 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu 11 tháng đầu năm đạt 7,22 tỷ USD, tăng 19,3% so với cùng kỳ năm 2013. Hoa Kỳ vẫn duy trì được vị trí là thị trường nhập khẩu hàng đầu của thủy sản Việt Nam, chiếm 21,85% tổng giá trị xuất khẩu. Xuất khẩu thủy sản sang thị trường này 10 tháng đầu năm^ đạt 1,43 tỷ USD, tăng 19,97% so với cùng kỳ năm 2013. Trong 10 tháng đầu năm, xuất khẩu thủy sản sang hầu hết các thị trường khác đều tăng như Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc với mức tăng tương ứng đạt 8,47%, 37,49% và 16,17%….
  • Sắn và các sản phẩm từ sắn. Khối lượng xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn trong tháng 11 ước đạt 244 nghìn tấn, với giá trị đạt 92 triệu USD đưa tổng khối lượng xuất khẩu mặt hàng này 11 tháng đầu năm đạt 2,96 triệu tấn với giá trị đạt 994 triệu USD, tăng 3,2% về khối lượng nhưng lại giảm 0,2% về giá trị so cùng kỳ năm 2013. Trong 10 tháng đầu năm 2014, giá trị xuất khẩu sắn và các sản phẩm sắn sang hầu hết các thị trường lớn đều tăng, ngoại trừ thị trường Hàn Quốc và Đài Loan. Trung Quốc tiếp tục là thị trường nhập khẩu sắn và các sản phẩm sắn lớn nhất của Việt Nam với 84,27% thị phần.

Báo cáo kết quả thực hiện tháng 11

Phụ lục

Nguồn: Trung tâm tin học và thống kê Bộ NN&PTNT

//Tin tự động cập nhật//


Bài viết khác