Theo Báo cáo của Bộ NN&PTNT, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản tháng 7 ước đạt 2,38 tỷ USD, đưa giá trị xuất khẩu của ngành 7 tháng đầu năm 2014 lên 17,43 tỷ USD, tăng 11,8% so với cùng kỳ năm 2013. Trong đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính ước đạt 8,31 tỷ USD, tăng 5,9%; Giá trị xuất khẩu thuỷ sản ước đạt 4,2 tỷ USD, tăng 24,5%; Giá trị xuất khẩu các mặt hàng lâm sản chính ước đạt 3,52 tỷ USD, tăng 13,2% so với cùng kỳ năm 2013.  Kết quả cụ thể một số mặt hàng chủ yếu như sau:

  • Gạo: Khối lượng gạo xuất khẩu tháng 7 năm 2014 ước đạt 606 nghìn tấn với giá trị 278 triệu USD đưa khối lượng xuất khẩu gạo 7 tháng đầu năm 2014 ước đạt 3,86 triệu tấn và 1,75 tỷ USD, giảm 7,9% về khối lượng, và giảm 4,8% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Giá gạo xuất khẩu bình quân 6 tháng đầu năm 2014 đạt 452 USD/tấn, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm 2013. Thị trường lớn nhất trong sáu tháng đầu năm 2014 là Trung Quốc với 39,11% thị phần. Đáng chú ý nhất là thị trường Philippin có sự tăng trưởng đột biến trong 6 tháng đầu năm với mức tăng gấp hơn 2 lần về khối lượng và giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Với mức tăng trưởng này, Philippin vươn lên vị trí đứng thứ 2 về thị trường nhập khẩu gạo của Việt Nam, chiếm 21,03% thị phần, tiếp đến là Gana, Singapore, chiếm thị phần lần lượt là 4,59% và 3,5%.
  • Cà phê: Tháng 7 năm 2014 xuất khẩu cà phê ước đạt 77 nghìn tấn với giá trị đạt 179 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu cà phê 7 tháng đầu năm ước đạt 1,12 triệu tấn và 2,31 tỷ USD, tăng 26,9% về khối lượng và tăng 21,9% về giá trị so cùng kỳ năm 2013. Giá cà phê xuất khẩu bình quân 6 tháng đầu năm đạt 2.043 USD/tấn, giảm 4,84% so với năm 2013. Đức và Hoa Kỳ tiếp tục là hai thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2014 với thị phần lần lượt là 14,02% và 10,10%. Thị trường Bỉ có tốc độ tăng mạnh nhất, gấp 2,5 lần về khối lượng và gấp 2,35 lần về giá trị so với 6 tháng đầu năm 2013.
  • Cao su: Ước tính khối lượng xuất khẩu cao su tháng 7 đạt 103 nghìn tấn với giá trị 175 triệu USD, với ước tính này 7 tháng đầu năm 2014 xuất khẩu cao su đạt 451 nghìn tấn với giá trị đạt 828 triệu USD, giảm 10% về khối lượng và giảm 32,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Giá cao su xuất khẩu bình quân 6 tháng đầu năm 2014 đạt 1.870 USD/tấn, giảm 25,76% so với cùng kỳ năm 2013. Mặc dù Trung Quốc và Malaysia vẫn duy trì là thị trường tiêu thụ cao su lớn nhất của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2014, nhưng lại có xu hướng giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2013, cụ thể: Trung Quốc giảm 23,6% về khối lượng và giảm 42,61% về giá trị; Malaysia giảm 13,41% về khối lượng và giảm 41,32% về giá trị.
  • Chè: Khối lượng xuất khẩu chè tháng 7 năm 2014 ước đạt 12 nghìn tấn với giá trị đạt 21 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu chè 7 tháng đầu năm ước đạt 70 nghìn tấn với giá trị đạt 116 triệu USD, giảm 6,7% về khối lượng và giảm 1,1% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Giá chè xuất khẩu bình quân 6 tháng đầu năm 2014 đạt 1.631 USD/tấn, tăng 6,6% so với cùng kỳ năm 2013. Khối lượng chè xuất khẩu sang Pakistan – thị trường lớn nhất của Việt Nam tăng 56,4% về khối lượng và tăng 89,21% về giá trị. Thị trường Coét có tốc độ tăng mạnh nhất, gấp 2,5 lần so với 6 tháng đầu năm 2013. Thị trường Inđônêxia giảm mạnh nhất, giảm 56,62% về khối lượng và giảm 54,56% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013.
  • Hạt điều: Khối lượng hạt điều xuất khẩu tháng 7 ước đạt 25 nghìn tấn với giá trị 169 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu điều 7 tháng đầu năm 2014 đạt 158 nghìn tấn với 1,02 tỷ USD, tăng 15,7% về khối lượng và tăng 17,5% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Giá hạt điều xuất khẩu bình quân 6 tháng đầu năm 2014 đạt 6.410 USD/tấn, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm 2013. Hoa Kỳ, Trung Quốc và Hà Lan vẫn duy trì là 3 thị trường nhập khẩu điều lớn nhất của Việt Nam chiếm lần lượt 31,19%, 16,3% và 11,09% tổng giá trị xuất khẩu.
  • Tiêu: Khối lượng tiêu xuất khẩu tháng 7 ước đạt 9 nghìn tấn, với giá trị đạt 74 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu tiêu 7 tháng đầu năm lên 119 nghìn tấn với giá trị 862 triệu USD, tăng 28,6% về khối lượng và tăng 41,8% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Giá tiêu xuất khẩu bình quân 6 tháng đầu năm 2014 đạt 7.156 USD/tấn, tăng 8,95% so với cùng kỳ năm 2013. Xuất khẩu tiêu sang thị trường Hoa Kỳ, Singapore, Tiểu vương quốc Ả Rập Thống Nhất và Ấn Độ – 4 thị trường lớn nhất nhất của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2014 – chiếm 46,08% thị phần – có mức tăng trưởng mạnh. Thị trường Hoa Kỳ tăng 29,43% về khối lượng và tăng 38,28% về giá trị, Singapore tăng gấp hơn 2 lần về khối lượng và tăng gần 3 lần về giá trị, Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất tăng 56,38% về khối lượng và 80,42% về giá trị. Thị trường Ấn Độ tăng gấp hơn 2 lần cả về khối lượng và giá trị so với cùng kỳ năm 2013.
  • Gỗ và sản phẩm gỗ: Ước giá trị xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ tháng 7 đạt 457 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu 7 tháng đầu năm đạt gần 3,35 tỷ USD, tăng 13,4% so với cùng kỳ năm 2013. Xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ 6 tháng đầu năm sang hầu hết các thị trường chính đều tăng, ngoại trừ thị trường Trung Quốc giảm 1,38%; Hoa Kỳ và Nhật Bản có mức tăng trưởng lần lượt là 15,92%, 24,29% so với cùng kỳ năm 2013. Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản- 3 thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam 6 tháng đầu năm 2014 – chiếm 66,17% tổng giá trị xuất khẩu.
  • Thuỷ sản: Giá trị xuất khẩu thủy sản tháng 7 ước đạt 647 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu 7 tháng đầu năm đạt 4,2 tỷ USD, tăng 24,5% so với cùng kỳ năm 2013. Hoa
  • Kỳ vẫn duy trì được vị trí là thị trường nhập khẩu hàng đầu của thủy sản Việt Nam, chiếm 22,65% tổng giá trị xuất khẩu. Xuất khẩu thủy sản sang thị trường này 6 tháng đầu năm đạt 804,71 triệu USD, tăng 41,3% so với cùng kỳ năm 2013. Sáu tháng đầu năm, xuất khẩu thủy sản sang hầu hết các thị trường tiêu thụ lớn khác đều tăng như Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc với mức tăng tương ứng đạt 7,32%, 51,33% và 35,28%.
  • Sắn và các sản phẩm từ sắn. Khối lượng xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn trong tháng 7 ước đạt 209 nghìn tấn, với giá trị đạt 71 triệu USD đưa tổng khối lượng xuất khẩu mặt hàng này 7 tháng đầu năm đạt 2,03 triệu tấn với giá trị đạt 647 triệu USD, giảm 6,3% về khối lượng và giảm 7,2% về giá trị so cùng kỳ năm 2013. Giá trị xuất khẩu sắn và các sản phẩm sắn sang hầu hết các thị trường lớn đều giảm mạnh, ngoại trừ thị trường Nhật Bản (tăng 82,82% về khối lượng và tăng 71,87% về giá trị) so với cùng kỳ năm 2013. Trung Quốc tiếp tục là thị trường nhập khẩu sắn và các sản phẩm sắn lớn nhất của Việt Nam với 85,11% thị phần.

Ở chiều ngược lại, giá trị nhập khẩu toàn ngành nông, lâm, thủy sản trong 7 tháng đầu năm 2014 ước đạt 12,45 tỷ USD, tăng 19,3% so với năm cùng kỳ năm 2013. Trong đó, nhập khẩu một số mặt hàng chính ước đạt 9,63 tỷ USD, tăng 17,8% so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, tình hình nhập khẩu của một số mặt hàng chính như sau:

  • Phân bón: Ước tính khối lượng nhập khẩu phân bón các loại trong tháng 7/2014 đạt 250 nghìn tấn với giá trị 81 triệu USD, đưa khối lượng nhập khẩu phân bón 7 tháng đầu năm 2014 đạt gần 2,1 triệu tấn, kim ngạch nhập khẩu đạt 666 triệu USD, giảm 15,8% về lượng và giảm 32,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Trong đó, khối lượng nhập khẩu phân đạm URE ước đạt 77 nghìn tấn với giá trị 24 triệu USD, giảm 73,2% về lượng và giảm 76,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013; phân SA ước đạt 550 nghìn tấn với giá trị nhập khẩu 74 triệu USD, giảm 15,5% về lượng và giảm mạnh 40,7% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Nguồn phân bón nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc, chiếm 46,1% tổng kim ngạch nhập khẩu. Nhập khẩu phân bón từ Trung Quốc trong 6 tháng đầu năm 2014 tăng 9,2% về lượng nhưng giảm 13,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013.
  • Thuốc trừ sâu và nguyên liệu: Ước giá trị nhập khẩu trong tháng 7/2014 đạt 65 triệu USD, đưa kim ngạch nhập khẩu 7 tháng đầu năm đạt 475 triệu USD, tăng 9,4% so với cùng kỳ năm 2013. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu chính, chiếm 56,9% tổng kim ngạch nhập khẩu. So với cùng kỳ năm trước, tổng kim ngạch nhập khẩu phân bón từ thị trường này trong 6 tháng đầu năm 2014 đã tăng 15,2%.
  • Gỗ và sản phẩm gỗ. Uớc giá trị nhập khẩu tháng 7/2014 đạt 152 triệu USD, đưa kim ngạch nhập khẩu 7 tháng đầu năm đạt gần 1,37 tỷ USD, tăng 74,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, nhập khẩu gỗ từ thị trường Lào chiếm 33,5%, Campuchia chiếm 14,4%, Hoa Kỳ chiếm 8,9%. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu gỗ lớn thứ 4 của Việt Nam, chiếm 8,8% tổng kim ngạch nhập khẩu. Tổng kim ngạch nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ từ thị trường này trong 6 tháng đầu năm 2014 đã tăng 22% so với cùng kỳ năm 2013.
  • Lúa mì: Ước tính khối lượng nhập khẩu lúa mì trong tháng 7/2014 đạt 96 nghìn tấn với giá trị 31 triệu USD, đưa khối lượng nhập khẩu lúa mì trong 7 tháng đầu năm đạt 1,08 triệu tấn, giá trị nhập khẩu đạt 346 triệu USD, tăng 24,4% về lượng và 11,7% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Thị trường nhập khẩu lúa mì chính là Úc, chiếm tới 82,2% tổng kim ngạch nhập khẩu.
  • Thức ăn gia súc và nguyên liệu: Giá trị nhập khẩu nhóm mặt hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu trong tháng 7/2014 ước đạt 329 triệu USD, đưa kim ngạch nhập khẩu 7 tháng đầu năm đạt 1,95 tỷ USD, tăng 10,7% so với cùng kỳ năm 2013. Thị trường nhập khẩu chính của nhóm mặt hàng này là Achentina (chiếm 32,8% thị phần), Hoa Kỳ (14,8%) và Trung Quốc (10,9%). Tổng kim ngạch nhập thức ăn gia súc và nguyên liệu từ thị trường Trung Quốc trong 6 tháng đầu năm 2014 đã tăng gấp 2,3 lần so với cùng kỳ năm trước.
  • Cao su: Ước khối lượng nhập khẩu cao su trong tháng 7/2014 đạt 25 nghìn tấn với giá trị đạt 49 triệu USD, đưa khối lượng nhập khẩu mặt hàng này trong 7 tháng đầu năm đạt 177 nghìn tấn, giá trị nhập khẩu đạt 353 triệu USD, giảm 1,2% về lượng và giảm 11,9% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Thị trường nhập khẩu cao su chủ yếu từ các nước như Hàn Quốc (chiếm 21,5%), Nhật Bản (17,2%) và Campuchia (11,6%). Trung Quốc là thị trường nhập khẩu cao su lớn thứ 6 của Việt Nam, chiếm 5,4% tổng kim ngạch nhập khẩu. So với cùng kỳ năm 2013, tổng khối lượng nhập khẩu cao su từ thị trường này trong 6 tháng đầu năm 2014 tăng 9,3%, tuy nhiên kim ngạch nhập khẩu chỉ tăng nhẹ 0,8%.
  • Thủy sản: Ước giá trị nhập khẩu mặt hàng thủy sản tháng 7/2014 đạt 106 triệu USD, đưa kim ngạch nhập khẩu 7 tháng đầu năm đạt 605 triệu USD, tăng 74,3% so với cùng kỳ năm 2013. Hai thị trường nhập khẩu chính là Ân Độ (chiếm 32,7%) và Đài Loan (chiếm 6,5%). Trung Quốc là thị trường nhập khẩu thủy sản lớn thứ 8 của Việt Nam, chiếm 3,1% tổng kim ngạch nhập khẩu. Tổng kim ngạch nhập khẩu thủy sản từ thị trường này trong 6 tháng đầu năm 2014 đã tăng 35,9% so với cùng kỳ năm 2013.
  • Hạt điều: Khối lượng hạt điều nhập khẩu trong tháng 7/2014 ước đạt 103 nghìn tấn với giá trị đạt 97 triệu USD, đưa tổng khối lượng nhập khẩu mặt hàng này trong 7 tháng đầu năm đạt 342 nghìn tấn, giá trị nhập khẩu đạt 348 triệu USD, tăng 3,1% về lượng và tăng 6,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013.
  • Đậu tương: Ước khối lượng đậu tương nhập khẩu trong tháng 7/2014 đạt 19 nghìn tấn với giá trị 12 triệu USD, đưa khối lượng nhập khẩu mặt hàng này trong 7 tháng đầu năm đạt 918 nghìn tấn, giá trị nhập khẩu đạt 543 triệu USD, tăng 2% về lượng nhưng giảm nhẹ 0,8% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013.
  • Ngô: Ước tính khối lượng ngô nhập khẩu trong tháng 7/2014 đạt 230 nghìn tấn với giá trị đạt 63 triệu USD, đưa khối lượng nhập khẩu mặt hàng này trong 7 tháng đầu năm đạt 2,62 triệu tấn, giá trị nhập khẩu đạt 681 triệu USD, tăng gấp 2,4 lần về lượng và 1,9 lần về giá trị so với cùng kỳ năm 2013. Braxin, Ân Độ và Thái Lan là các thị trường nhập khẩu chính của mặt hàng này, chiếm lần lượt 54,3%; 21,1% và 6,6% tổng kim ngạch nhập khẩu.

Nguồn: Trung tâm tin học và thống kê Bộ NN&PTNT

//Tin tự động cập nhật//


Bài viết khác